ĐI LỄ CHÙA
- Dư Thị Hoàn -
Năm người đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa
Tôi biết đến Dư Thị Hoàn khi có người bạn gái cho tôi xem một thi phẩm của nữ tác giả này. Bài thơ “ Đi lễ chùa” (1987)
Đã từng đọc không ít bài thơ viết về người phụ nữ, nhưng “Đi lễ chùa” của Dư Thị Hoàn vẫn để lại trong tôi một cảm giác đặc biệt. Vừa lạ lẫm, vừa như có điều gì đó day dứt khôn nguôi.
Trước tiên có lẽ là điều "tưởng vậy mà không phải là vậy" khi đối chiếu nhan đề với nội dung bài thơ. Đọc tên bài "Đi lễ chùa", tôi nghĩ tác giả sẽ xoay quanh cảm nhận về tấm lòng Thiền, về mối quan hệ Đạo- Đời, hay những điều khuyên răn có tính luân lý, giáo dục mang đậm tín ngưỡng đạo Phật. Nhưng không phải. "Đi lễ chùa" chỉ là nêu một "tình huống" để năm người phụ nữ cùng ngồi một chuyến xe trên con đường trần bụi. Họ nói với nhau về nỗi khổ của người đàn bà mà có lẽ vì nó mà hôm nay họ cùng nhau mang theo đồ vật tế lễ hành hương về cõi Phật.
Tiếp theo, là ở chất tự tự tràn ngập bề nổi
bài thơ. Đọc thơ mà như đang nghe một câu chuyện. Có sự việc, nhân vật và lời
thoại. Điệu thơ không giống như thông thường. Có sự trúc trắc gập ghềnh của
nhịp, mơ hồ về gieo vần, cũng chẳng dụng công về nghệ thuật ngôn từ…Nó giống
như “thấy đâu nói đấy” vậy. Nhưng người đọc vẫn nhận ra một sự sắp xếp đầy ẩn ý
của một tay viết khá già dặn. Từ đó thức ngộ chất triết lí sâu sắc ẩn chứa
trong thi phẩm.
“Đi lễ chùa” là một hành vi tín ngưỡng đã có từ
rất lâu trong đời sống tâm linh người Việt. Thông thường, người ta mang theo đồ
lễ, mang theo cả những nỗi niềm, điều ước nguyện. Ai cũng muốn được Đức Phật
phù hộ độ trì cho mình và gia đình được khỏe mạnh, vui sướng, được thoát khỏi
sự tội nghiệp, vô phúc, bất hạnh và tuyệt vọng. Năm
người phụ nữ hành hương về cõi Phật không chỉ có "vật tế
lễ" mà còn nặng đeo cả những sầu khổ của kiếp đàn bà. Năm người, mỗi
người trong số đó đang trầm tư nghĩ suy về một nỗi đau mà có lẽ chính họ đang
phải gánh chịu...
"Người thứ nhất thở dài:
Tội
nghiệp nhất người đàn bà không chồng!"
Một tiếng thở dài thôi mà sao có cảm giác như là hệ
quả của cả một quá trình chiêm nghiệm, từng trải về một điều bị coi là “phận
hẩm duyên ôi” đáng thương của người phụ nữ. Đó là “đàn bà không chồng”. Bất kỳ
người con gái nào, khi trưởng thành, đều mong muốn có một tấm chồng. Để làm gì?
Để có một gia đình riêng theo đúng nghĩa. Để có được thiên chức làm vợ làm mẹ.
Để thỏa khát vọng về hạnh phúc lứa đôi…"Đàn bà không chồng như vườn không
có hàng rào", "Không chồng không chốn tựa nương/ Như nhà không nóc,
như giường không thang”. Nỗi cô quạnh của người đàn bà không chồng đã trở
thành niềm đau trong không ít những áng văn thơ xưa nay. Thế nên "Tội
nghiệp nhất người đàn bà không chồng”…
"Người
thứ hai chép miệng:
Vô phúc nhất
người đàn bà không con”
Cuộc sống của người đàn bà gắn liền với gia đình, chồng
con. Không chồng đã là đáng thương, tội nghiệp, nhưng có chồng mà không con thì
thật là vô phúc, đoản hậu. Dường như lời của người đàn bà thứ nhất khơi nguồn
cho nỗi đau bấy lâu âm ỉ nhức nhối trong người đàn bà thứ hai lên tiếng. Đứa
con, đối với người mẹ là máu thịt, là sự tiếp nối cuộc sống, là niềm vui thời
trẻ, là hạnh phúc khi tuổi về già. Nếu cuộc đời không cho họ quyền làm vợ với
một tấm chồng thì đứa con sẽ là sự bù đắp, để họ được yêu thương, chăm sóc,
nuôi dạy và được thấy con khôn lớn trưởng thành. Đứa con luôn là niềm hạnh phúc
lớn lao của người mẹ. Vậy nên "Vô phúc nhất người đàn bà không
con!" .
Đến người thứ ba. Một tiếng “cười buông”. Khó hiểu mà quặn thắt trong từng câu chữ: "Bất hạnh nhất người đàn bà không khóc
nổi trước mặt chồng”. Có người nói: Nước mắt luôn sẵn có trong người
đàn bà. Cũng phải! Bởi phụ nữ vốn dễ xúc động và mau nước mắt. Buồn họ khóc,
vui quá cũng khóc, họ khóc cho mình, khóc cho con, khóc cho người... Nước mắt
là sự bộc lộ cảm xúc, mà người đầu tiên họ chia sẻ đó là người “đầu gối
tay ấp” của mình. Và hạnh phúc biết bao khi có được sự đồng điệu, cảm
thông, thấu hiểu, được tựa vào bờ vai ấm áp với những lời cổ vũ động viên hay
vỗ về an ủi của người chồng. Vậy mà có những người đàn bà không khóc nổi trước
mặt chồng. Sao vậy? Phải chăng người gọi là chồng ấy, với người đàn bà không còn
là chỗ dựa về tinh thần nữa. Anh ta vô cảm, thơ ơ, lạnh lùng. Để rồi trải qua
năm tháng khóc thầm một mình, chị đã không còn nhu cầu tìm đến chồng để giãi
bày, sẻ chia, ngay cả lúc đau buồn nhất. Trước anh ta, chị không khóc nổi. Nước
mắt chảy ngược cắt cứa trong tim. Tiếng“cười buông” là sự biến thái của
tiếng khóc. Khi không khóc được, người đàn bà buông tiếng cười. Đó là tiếng
cười sau bao từng trải chợt nhận ra một điều mỉa mai, trớ trêu: Không chồng thì
đáng thương đấy, nhưng có chồng mà như sống bên gỗ đá thì không chỉ tội nghiệp
mà còn là nỗi bất hạnh nhất, nó phủ bóng đen tối lên suốt cuộc đời của người
phụ nữ… Tác giả đã đi vào phần bên trong sâu kín của người đàn bà. Nhìn bề
ngoài, họ có chồng có con, có gia đình vậy mà lại phải chịu nỗi xót xa đau khổ,
và đáng sợ hơn, có thể tới mức chính họ rồi cũng cạn kiệt mọi trạng thái cảm
xúc…
"Người thứ tư điềm đạm:
Tuyệt
vọng nhất người đàn bà không cười được khi thấy con!"
Người đàn bà thứ tư không thở dài, không chép miệng, không
cười buông mà với một thái độ "điềm đạm”. Chị nói về
nỗi tuyệt vọng nhất của người phụ nữ là không cười được khi
thấy con của mình. Có con là có phúc. Không có con là "vô phúc
nhất". Với một người mẹ, con là hi vọng, là hạnh phúc, là tương lai.
Mẹ có thể hi sinh tất cả vì con. Thế nhưng người mẹ lại "không cười được
khi thấy con". Đọc đến đây, tôi có cảm giác rùng mình ớn lạnh hình dung
đứa con trước mắt người mẹ. Có thể nó đã không được mang hình hài bình thường
của con người lúc sinh ra; có thể nó không may mắn được sống vì ốm đau, vì tai
nạn; có thể nó phát triển thành một kẻ hư đốn, quái đản, ra tay hành hạ chính
người đã sinh ra nó…Vì thế, đứa con đã thành nỗi tuyệt vọng tột cùng của người
mẹ mất rồi, làm sao có thể cười được khi đối mặt với nó? Dường như đã có
sự "tôi luyện" bao nỗi đau đớn, để kết vón thành khối sạn
chai trong tâm hồn người mẹ, rồi bộc lộ thành vẻ "điềm
đạm" lạnh buốt kia...
Bốn người đàn bà với bốn tâm trạng, bốn nỗi đau. Cách biểu
hiện đi từ động hoạt bên ngoài đến sự khép kín tâm sự bên trong (thở dài, chép
miệng, cười buông, điềm đạm). Những nỗi đau được sắp xếp theo trình tự tăng
tiến: tội nghiệp, vô phúc, bất hạnh, tuyệt vọng. Tất cả đều xoay
quanh chuyện chồng con vốn là những yếu tố quan trọng làm nên sướng khổ của
người đàn bà. Cái trớ trêu là dù có chồng có con hay không chồng không con…
những người đàn bà đó đều phải chịu nỗi bất hạnh. Phải chăng Dư Thị Hoàn đã cố
ý không nói đến niềm vui, niềm hạnh phúc, để tô đậm hơn nỗi đớn đau của người
phụ nữ, từ đó rút ra điều chiêm nghiệm thấm thía: Phận đàn bà vốn xưa
nay/ Khổ đau chồng chất, rủi may khôn lường...
Người đàn bà cuối cùng trên xe ngựa, người thứ năm. Từ nãy
giờ chị ngồi nghe bốn người kia nói. Không đồng tình hay phản đối, không chen
ngang góp lời hay an ủi sẻ chia… Chị chỉ cất lên tiếng ngắn ngủi, hướng gửi vào
chốn thâm nghiêm cao vời: "Mô
Phật". Chị không nói đến một nỗi bất hạnh cụ thể nào như bốn
người kia, song lại như nói được rất nhiều. Phải chăng có sự chất chứa dồn trút
tất cả nỗi tội nghiệp nhất, vô phúc nhất, bất hạnh nhất và tuyệt vọng nhất, để
ứ nghẹn không thể thốt thành lời. Còn gì đau đớn hơn khi ta không thể nói về
nỗi đau của mình? Và hơn cả nỗi đau đó, khi nhận ra: Chẳng thể trông đợi sự
giải thoát ở thế gian này. Chỉ có hi vọng ở cõi Phật, trông đợi sự siêu thoát.
Mô phật!
Đến đây có thể dừng khép lại câu chuyện “Đi lễ chùa” của
năm người phụ nữ. Họ đi từ nỗi đau sóng gió của kiếp đàn bà để rồi nén lòng,
tĩnh tại trước khi tới cửa Phật… Nhưng, ngay cả người đọc cũng giật mình, như
bừng tỉnh, bởi liên tiếp hành động mạnh của lão xà ích trong những câu cuối của
bài thơ:
"Lão xà
ích giật dây cương.
Roi quất.
Tung bụi
đường”
Người thứ sáu xuất hiện. Không nói, chỉ hành động. Lão là ai? Một
người chồng? Một người cha? Một người con? Lão có nghe tất cả lời của năm người
đàn bà? Có cảm thấu được bi kịch của họ? Sao lão không tiếp tục để vó ngựa gõ
đều trên đường ru dịu nỗi đau cho họ trước khi vào đến cửa chùa? Có phải lão
muốn thúc ngựa chạy nhanh hơn cho họ sớm kêu cầu vợi bớt nỗi đau? Hay có phải
chính lão muốn cho những người đàn bà kia hiểu rằng con đường họ đang đi, cho
dù là đi lễ Phật vẫn chỉ là con đường trần bụi của thế gian? Nơi họ đang đến
kia, với họ chỉ là cõi vô minh mờ ảo, còn hiện tại mới là cái hữu hình với muôn
trải khổ sầu, cho dù muốn giải thoát vẫn không thể ra khỏi vòng cương tỏa của
nó? Hình ảnh "giật dây cương", "roi quất", "tung
bụi đường" là biểu tượng của hiện thực khắc nghiệt, tàn nhẫn, là điều
tường minh trong cuộc sống mà những người đàn bà phải hiểu, phải đối mặt, phải
sống và vượt qua tất cả.
Lấy nhan đề là "Đi lễ
chùa", nhưng kết thúc bài thơ lại không phải là một ngôi chùa nào đó.
Vẫn là năm người đàn bà trên đường tung phủ bụi. Chiếc xe ngựa gợi nghĩ đến
vòng chảy luân hồi của cuộc đời, dù nhanh hay chậm nhưng nó vẫn đi theo con
đường mà tạo hóa ban định. Chốn chùa chiền trở thành xa xôi, vô định, như chính
điều ước nguyện được thoát khỏi nỗi khổ trần ai, được sống trong bình yên thanh
thản của muôn triệu phụ nữ trên thế gian này.
Bài thơ "Đi lễ chùa" của Dư Thị Hoàn đã
để lại trong tôi nỗi ám ảnh chua xót về kiếp phận hồng nhan:
“Đau
đớn thay, phận đàn bà”
Sống trong bể khổ sao mà cực
thân.
Cầu
xin rũ bỏ bụi trần.
Mà sao chẳng thoát trầm luân kiếp
người.
Ngày
03/12/2015
|
|
|

DVD sang thăm nhà, được đọc bài cảm nhận về một bài thơ... cảm nhận về phụ nữ...
Trả lờiXóaDVD chúc nhà thơ phương nhungkhanh tuần mới vui khỏe, an lành!