Nguyễn Thị Phương Anh
Có những sự thật của một thời mà thế hệ trẻ bây giờ khó có thể tin nổi, vì nó quá lớn lao, quá vĩ đại, giống như huyền thoại vậy, nhất là khi sự thật ấy đã dần xa và bị che phủ bởi lớp bụi đời thường với bao “hỉ, nộ, ái, ố, sân, si”… Nhưng đã là sự thật với giá trị chân chính được khẳng định, thì không được phép lãng quên và phủ nhận. Nó cần phải được ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc, để trở thành niềm tin, niềm tự hào, là điểm tựa vững chắc cho các thế hệ người con đất Việt tiến về tương lai. Suy nghĩ đó đến với tôi khi được đọc những trang KÝ ỨC CHIẾN TRANH thấm đẫm chất bi hùng về một thời chiến trận của Hội cựu bộ đội Quân tăng cường Thủ đô Hà Nội.
Đó
là một bộ sách khá đồ sộ, do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành, hiện đã có
5 tập. Sách in đẹp, bìa cứng, với độ dày mỗi cuốn trên dưới 300 trang; tập hợp
nhiều tác phẩm, bài viết ở các thể loại như: Hồi ký, nhật ký, nghị luận, truyện
và thơ. Tác giả phần lớn đều từng là chiến sĩ quê gốc Hà Nội thuộc Quân tăng
cường Thủ đô trong những năm tháng ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Đế
quốc Mỹ xâm lược.
Có
thể coi là may mắn khi tôi được một cựu sĩ quan quân đội gửi tặng 5 tập sách
đáng quý trên. Thật sự tôi rất xúc động, vì đã từng nghe nói chuyện về việc Thủ
đô có một đội quân bổ sung cho lực lượng chiến đấu ở miền Nam, cả trên đất bạn
Lào và Campuchia, khi cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn quyết liệt. Chính nơi
tôi đang sống (Huyện Đông Anh- Hà Nội) có hàng ngàn người lính gia nhập đội
quân tăng cường, trong đó có những người tôi từng biết hoặc nghe giới thiệu như
các ông: Nguyễn Văn Quang, Đỗ Tân Lập, Nguyễn Văn Hân, Nguyễn Đình Tòng, Đặng
Trung Lạc, Lê Huy Bùi, Nguyễn Quốc Đáng, Trần Văn Nhiếp, Hoàng Viết Tuất, Đào
Văn Oanh, Lê Văn Bào, Đặng Văn Luân, Lại Duy Bến… Đặc biệt, cựu chiến binh
Nguyễn Mạnh Quyết, nguyên chiến sĩ tiểu đoàn 2, Quân tăng cường Thủ đô, quê ở
xã Liên Hà- Đông Anh- Hà Nội, đã từng bắt sống đại tá Nguyễn Văn Thọ- Tư lệnh Lữ
đoàn dù 3 quân Ngụy trong chiến dịch Đường 9 Nam Lào đầu năm 1971… Hàng trăm người
con của quê hương tôi đã ngã xuống nơi chiến trường khói lửa, trong đó có nhà
giáo, người chú đáng kính của tôi- ông Nguyễn Hữu Ngôn (hi sinh năm 1972). Họ
cùng với đồng đội đã trở thành niềm tự hào của Đông Anh nói riêng, Thủ đô Hà
Nội nói chung.
Với
KÝ ỨC CHIẾN TRANH, những cựu chiến binh Quân tăng cường Thủ đô đã thực hiện
được một việc vô cùng ý nghĩa. Đó là làm sống lại lịch sử bằng hồi ức về những
gì họ đã trải qua trên các mặt trận. Mỗi chuyện người lính kể, đều là sự việc
có thật mà họ là người trong cuộc hoặc trực tiếp chứng kiến. Họ kể chuyện của
mình, của đồng đội, chuyện của người còn sống và cả người đã hi sinh, chuyện về
quân ta, quân địch với những tiến lui, thành bại của 2 phía… Tất cả đều có giá
trị minh họa cho chủ trương chiến lược, sách lược của Bộ Chính trị và Quân ủy
Trung ương; đồng thời phản ánh sống động nhiều sự kiện, trận chiến lớn nhỏ từng
tạo nên dấu ấn, hoặc “tính chất bước ngoặt” trên chiến trường Nam bộ thời ấy. Lối
viết của các tác giả không bị áp lực bởi suy nghĩ là cần phải khoa học, bài
bản, chau chuốt, chọn lọc… mà vô tư (theo kiểu lính tráng) nói, kể, mô phỏng những
gì mắt thấy tai nghe, diễn tả những cung bậc tình cảm rất đời thường của bản
thân và đồng đội. Văn, thơ của những cựu binh vừa rắn rỏi lại vừa mộc mạc giản
dị, giàu tình cảm, song cũng thật hào hoa và không kém phần lãng mạn (nét đặc
điển sẵn có của những chàng trai ra đi từ đất học Hà thành). Vì thế, tác phẩm
của họ có sức thuyết phục và truyền cảm hứng mạnh mẽ tới độc giả.
Tôi đã đọc 5 cuốn của bộ sách, có truyện
có đoạn văn, bài thơ tôi đọc đi đọc lại. Tuy chưa hiểu hết những ngôn từ, thuật
ngữ thuộc lĩnh vực quân đội mà các “tác giả lính” đã sử dụng, nhưng về cảm xúc,
tôi bị cuốn theo những dòng chữ như còn đang ấm nóng hơi thở của hiện thực. Tôi
đặc biệt thích những trang nhật ký của họ. Ở đó, sự việc diễn ra mỗi ngày được người
lính ghi lại theo kiểu “tốc ký”, cụ thể, ngắn gọn, không văn chương hoa mỹ,
nhưng giúp cho người đọc có cảm giác như đang được tiếp xúc trực tiếp, được
sống cùng với người lính, chứng kiến rõ ràng sự việc họ trải qua và vui buồn
cùng với họ. Tôi cũng bị cuốn hút bởi nhiều bài viết mang tính chất hồi ký (kể những
chuyện có thật mà tác giả còn nhớ và lưu trong ký ức). Các sự việc trong các bài viết đó dường như đều có ý nghĩa
đặc biệt với người lính và để lại dấu ấn đậm nét trong tâm khảm của họ. Cách
nhìn nhận đánh giá của tác giả đối với sự việc cũng khách quan và sâu sắc hơn, do
có “khoảng lùi xa” về thời gian để suy ngẫm, chiêm nghiệm. Trong bộ sách còn có
những tác phẩm chính luận của một số cán bộ quân đội cao cấp, giáo sư, nhà sử
học. Người viết, với trình độ lý luận sắc bén, tầm nhìn chiến lược, lối tư duy
biện chứng và cách đánh giá khoa học, khách quan, đã giúp người đọc hình dung toàn
cảnh cục diện cuộc chiến cùng những đóng góp to lớn của Quân tăng cường Thủ đô
đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
Bộ
sách đã đưa tôi trở về thập niên 60 của thế kỷ trước, khi cuộc kháng chiến bước
vào giai đoạn ác liệt. Mỹ- Ngụy bị thua đau trong chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” (1964). Chúng điên cuồng mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc và ồ ạt
đưa hàng chục vạn quân vào Nam Việt Nam thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục
bộ” (1965). Nhiều cơ sở kinh tế ở miền Bắc bị bom đạn tàn phá, nhiều đoạn đường
huyết mạch tiếp tế cho miền Nam bị hủy hoại… Trước tình hình nguy nan đó, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi “Chống Mỹ cứu nước” (17/7/1966). Trung ương
Đảng khóa III đã nhanh chóng ra ra nghị quyết quan trọng, trong đó có đoạn:“ Thực hiện lời kêu gọi thiêng liêng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nâng cao lòng yêu nước căm thù giặc, quyết tâm vừa sản
xuất vừa chiến đấu đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc;
đồng thời chi viện sức người sức của cho miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm
lược”. Hơn lúc nào hết, “Vì miền Nam
ruột thịt”, “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” đã trở thành lý tưởng
sống của thế hệ thanh niên suốt những năm tháng bi thương và hào hùng đó. Quân
tăng cường Thủ đô đã được thành lập trong hoàn cảnh như vậy, với yêu cầu nhiệm
vụ rõ ràng là: Tuyển quân, huấn luyện, tổ chức hành quân vào miền Nam, giao
quân bổ sung cho các đơn vị tham gia chiến đấu trên các chiến trường… Thanh
niên Hà Nội rầm rộ nhập ngũ lên đường cứu nước. Họ là nông dân, công nhân, trí
thức, học sinh, sinh viên, cả quân nhân tái ngũ. Trong vòng 8 năm (1967-1975),
đã có 42 tiểu đoàn được thành lập với gần 30.000 cán bộ chiến sĩ được đào tạo
bài bản, chất lượng, có sức khỏe, có ý chí chiến đấu cao; đóng góp sức mạnh to lớn
cho lực lượng Quân giải phóng chiến đấu và chiến thắng trên nhiều mặt trận ở
miền Nam, cả đất bạn Lào, Campuchia.
Khi nói đến những người lính Thủ đô,
trong đó rất nhiều người là học sinh, sinh viên, giáo viên, kỹ sư, bác sỹ… xung
phong lên đường vào Nam chiến đấu, tôi không thể không liên tưởng đến những
người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến thời kháng chiến chống Thực dân Pháp.
Họ cũng phần nhiều là thanh niên đất Hà thành, rời gia đình, nhà trường, phố
phường yêu dấu, dấn thân vào cuộc kháng chiến gian khổ với tinh thần “Quyết tử để tổ quốc quyết sinh”. Họ
“Tây tiến” để bảo vệ dải biên cương Tây Bắc của Tổ quốc. Còn các chiến sĩ trong
Quân tăng cường Thủ đô lại hành quân “Nam tiến” với ý chí “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”. Người
lính Tây Tiến năm xưa mang trong mình vẻ đẹp hào hùng mà lãng mạn, khí phách mà
rất đỗi hào hoa:
“Tây
Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu
lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi
mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội
dáng kiều thơm
Rải rác biên
cương mồ viễn xứ
Chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay
chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”
(Trích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng)
Người
chiến sĩ Quân tăng cường Thủ đô cũng mang trong mình những vẻ đẹp đó của người
lính Tây Tiến. Phần lớn trong họ được học dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa ở
Miền Bắc, được bồi dưỡng về Chủ nghĩa Mác- Lê nin và Lý tưởng Cộng sản, được huấn
luyện bài bản về sử dụng trang thiết bị quân sự, khả năng tác chiến, vv… Vì vậy,
họ đã bước vào cuộc chiến đấu tự tin, quả cảm và tràn đầy niềm lạc quan cách
mạng:“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà
lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
Có thể nói từ đoàn quân Tây Tiến thời
chống Thực dân Pháp đến Quân tăng cường Thủ đô thời kháng chiến chống Đế quốc
Mỹ đã cho thấy sự kế thừa và trưởng thành của quân đội ta nói chung, của những
người chiến sĩ đất Hà thành nói riêng. Họ đã nối tiếp nhau phát huy truyền
thống yêu nước, chống giặc giữ nước để bảo vệ nền độc lập tự do cho dân tộc.
Nói đến chiến tranh, không chỉ nói đến
chiến công, đến sức mạnh của chính nghĩa, của khối đoàn kết toàn dân tộc cùng ý
chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù… Đằng sau những tấm huân huy chương, niềm tự
hào và lời ngợi ca… còn là sự tổn thất, đổ máu, hi sinh. Khi còn là học sinh, tôi
đã từng nghe một cựu lính bước ra từ cuộc chiến với tư cách là người chiến
thắng nói: “Cảm xúc vui sướng, tự hào,
hãnh diện sẽ qua mau, còn nỗi đau thì dai dẳng”. Khi đã trưởng thành, đi qua
những trải nghiệm về cuộc sống, tiếp xúc với nhiều con người, số phận, tôi mới
thấm thía điều xót xa ẩn chứa trong câu nói đó. Đây là những con số biết nói do
nhà văn Đặng Trung Lạc (thương binh 1/4) cung cấp: “Chỉ tính riêng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên địa bàn Hà
Nội đã có 45 nghìn liệt sĩ, 30 nghìn thương binh, 14 nghìn cựu chiến binh bị
ảnh hưởng bởi chất độc da cam và 3227 cán bộ chiến sĩ bị tù đày” (Hậu
phương ngày ấy). Quả là sự mất mát vô cùng to lớn. Tôi không khỏi ngậm ngùi khi
nghĩ đến 45 nghìn gia đình có người thân yêu không trở về sau ngày chiến thắng,
đến những thương bệnh binh đã phải oằn lưng chịu gánh nặng của cuộc sống trong
công cuộc xây dựng lại đất nước trên bao đổ nát do chiến tranh để lại. Rồi cả
những dư chấn về tinh thần mà người lính
phải chịu, nỗi đau thương của người mẹ khi thân xác con mình còn nằm đâu đó nơi
chiến trường xưa:
Hỡi người lính của một thời máu lửa
Mỗi giấc đêm còn ám cảnh khói bom
Những đồng đội ngã xuống tuổi còn son
Nắm xương cốt
mòn mỏi nơi hoang vắng.
Bao người mẹ
lặng thầm trong đêm trắng
Vọng nguyệt
cao gọi hồn đứa con yêu
Lúc ra đi
chưa làm được một điều
Rước đón con về quê cha đất tổ.
(Trích bài thơ “Nghĩ về một thời chiến trận” của Phương Anh)
Các
chính sách đãi ngộ của Đảng, Nhà nước cho người có công với cách mạng, người
thân của các liệt sĩ, thương binh, bệnh binh… không đủ để bù đắp những mất mát
và tổn hại dài lâu mà người lính cùng thân nhân phải gánh chịu, nhưng đã là
nguồn an ủi, động viên giúp họ vươn lên trong cuộc sống tiếp tục chiến đấu, lao
động, công tác cống hiến cho xã hội.
Tôi
được biết, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, không ít người lính Thủ đô còn ở
lại quân ngũ, tham gia công cuộc bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc của tổ
quốc. Những kinh nghiệm chiến đấu cùng với phẩm chất đẹp đẽ của bộ đội Cụ Hồ
được tôi luyện trong binh lửa, đã khiến họ cầm chắc hơn tay súng, thực hiện tốt
nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ lãnh thổ dân tộc. Không chỉ vậy, những chiến sĩ Thủ
đô còn góp phần giải cứu nước bạn Campuchia khỏi nạn diệt chủng do tập đoàn
phản động Pônpốt- Iêng xari gây ra, thực hiện nghĩa vụ quốc tế trong sáng và
cao cả. Tôi rất xúc động khi đọc những trang “Ký ức tiểu đoàn I Đông Anh chiến
đấu bảo vệ biên giới phía Bắc” của cựu binh Nguyễn Hữu Chế, nguyên thuộc tiểu
đoàn 2- Quân tăng cường Thủ đô. Qua lời kể, trong tai tôi như vang ngân giai
điệu bài hát “Ta đi vào cuộc chiến đấu mới” của quân nhân Nguyễn Như Tiền- Chính
trị viên Đại đội 1 của Tiểu Đoàn 1 Đông Anh, sáng tác trên đường hành quân lên
biên giới:
Ta
đi vào cuộc chiến đấu mới…
Băng
qua trăm núi ngàn sông
Ta
chiến đấu bảo vệ biên giới
Ta chiến đấu bảo vệ Thủ đô
Lòng ta gắn với mẹ hiền
Tình ta gắn
với mọi miền biên cương…”
Ca
khúc góp phần cổ vũ tinh thần chiến sĩ quyết tâm bảo vệ biên cương, chống quân
xâm lược bành trướng Trung Quốc. Trận chiến bảo vệ vững chắc cao điểm 282 trên
địa bàn huyện Văn Lãng tỉnh Lạng Sơn vào ngày mùng 3/3/1979 trở thành một trong
những thắng lợi giòn giã đầu tiên của tiểu đoàn Đông Anh và quân đội ta trong
chiến tranh biên giới kéo dài ngót chục năm (1979- 1988). Máu của chiến sĩ Thủ
đô lại đổ sau mỗi trận đánh giành giật lại từng tấc đất, mỏm đá, từng quả đồi,
ngọn núi, lũng, khe… Điều đau đớn nhất là kẻ xâm lược lại chính là những người
bạn đã từng được ta tin tưởng, từng có mối quan hệ hữu nghị và cùng chung con
đường đi lên Chủ nghĩa xã hội… Chúng ta buộc phải chiến đấu vì sự toàn vẹn lãnh
thổ thiêng liêng của đất nước mình.
Cũng sau 1975, khi Quân tăng cường Thủ
đô đã kết thúc vai trò lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhiều người
lính đã trở về cuộc sống lao động đời thường. Họ lại là nông dân, công nhân,
nhà giáo, bác sỹ, kỹ sư hoặc tiếp tục việc học hành còn dang dở. Cuộc đời của
họ theo những ngả rẽ khác nhau. Có thành công có thất bại. Người vươn tiếp lên
đỉnh cao sự nghiệp, người vẫn bình dị với cuộc sống còn nhiều vất vả, lo toan.
Nhưng dù ở vị trí nào, họ vẫn lưu giữ cho mình “Một thời chiến trận” với ý chí
“thép” của người lính và tình đồng đội gắn bó keo sơn. Bộ sách KÝ ỨC CHIẾN
TRANH đã dành đáng kể những trang viết về họ. Ta có thể bắt gặp nỗi day dứt của
cựu binh Nguyễn Quốc Đáng khi đã 45 năm rồi vẫn chưa tìm được hài cốt của 2
đồng đội nằm lại chiến trường Quảng Trị và Tây Nguyên; niềm hạnh phúc được giúp
đỡ đồng đội của doanh nhân thành đạt Phạm Văn Thảo… Ta cũng có thể gặp cựu binh
Đinh Xuân Hương, dẫu tuổi đã cao nhưng vẫn miệt mài tâm huyết với công việc giáo dục thế hệ trẻ...
Khi đọc “Đồng đội ơi! Ta về với nhau” của
nhà văn Đặng Trung Lạc, tôi không khỏi xúc động về tình cảm gắn bó của những
người lính từng chung chiến hào một thời. Họ đã may mắn vượt qua cái chết để
trở về quê hương, tạo lập cuộc sống gia đình. Mỗi người mỗi cảnh, điều kiện
kinh tế cao thấp khác nhau, nhưng không ai quên ai. Họ vẫn dành thời gian để
đồng đội về với nhau trong tình cảm ấm áp và thiêng liêng…Có thể nói, những
người lính trong cuộc sống đời thường đã góp phần hoàn thiện vẻ đẹp rất đỗi tự
hào của chiến sĩ Quân tăng cường Thủ đô nói riêng, của anh bộ đội Cụ Hồ nói
chung.
KÝ ỨC CHIẾN TRANH có một số lượng
không ít sáng tác nghệ thuật của các tác giả đồng thời là cựu quân nhân. Đáng
chú ý là 2 thể loại truyện ngắn và thơ. Đọc tác phẩm của họ, tôi bỗng nhớ đến
những câu thơ của Huy Cận:
“Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng
đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực
sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên
ngang mà nhân ái chan hòa.”
Con
người Việt Nam là vậy. Khi giặc đến, họ đeo gươm, khoác súng, lên đường ra tiền
tuyến đánh đuổi quân thù. Lúc ngơi bom đạn họ “cầm bút thêu hoa”, thổi hồn trên
những cuốn vở, trang sách. Dòng máu 4000 văn hiến không ngừng chảy trong họ, để
khi có cơ hội thăng hoa thành những áng thơ văn…Với người lính, văn thơ là sức
mạnh tinh thần cổ vũ chiến đấu. Những trải nghiệm đời lính cùng với bao xúc cảm
ấm áp tình đồng chí, đồng đội nơi lửa đạn khói bom là nguồn cảm hứng để họ sáng
tác văn thơ. Tôi tin bất cứ ai, khi đọc tác phẩm của họ, dù trong thời chiến hay
thời bình cũng đều xúc động bởi tính chân thật của chất liệu hiện thực, sự chân
thành về cảm xúc và chan chứa tình yêu con người, yêu cuộc sống…
Cuộc
chiến chống quân xâm lược bảo vệ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ trong nửa
cuối thế kỷ 20 ngày càng xa dần vào dĩ vãng. Sẽ có nhiều điều lãng quên. Nhưng
với chúng ta, những người yêu và có trách nhiệm với lịch sử, luôn mong muốn lưu
lại nhiều nhất có thể về thời cứu nước hào hùng ấy, để chắt lọc phát huy các
giá trị tốt đẹp, từ đó tiếp tục bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng phát
triển. Những người lính Quân tăng cường Thủ đô đã thể hiện ý thức trách nhiệm
trong việc đáp ứng mong muốn chính đáng ấy bằng những trang viết mộc mạc, chân
thực và tràn đầy nhiệt huyết của họ. Với tư cách là một nhà giáo, tôi thiết
nghĩ cần phải quan tâm hơn nữa giáo dục lòng yêu nước, bảo vệ đất nước, “Noi
gương anh bộ đội Cụ Hồ” cho các học sinh, sinh viên. Để làm tốt điều ấy, giáo
viên không chỉ đơn giản chuyển tải cho học viên những kiến thức có sẵn trong
các tài liệu giáo trình mà Bộ Giáo dục cho phép sử dụng. Sẽ sinh động và hấp
dẫn hơn nhiều nếu có thêm thông tin từ lời kể của nhân chứng lịch sử; từ những
trang hồi ký, nhật ký hoặc các tác phẩm văn thơ của chính những người đã từng
có mặt trong các sự việc, sự kiện của cuộc chiến mà lịch sử ghi lại. KÝ ỨC
CHIẾN TRANH của các cựu chiến binh Quân tăng cường Thủ đô xứng đáng là tư liệu
tốt để giáo viên, học sinh tìm đọc và giới thiệu trong nhà trường.
Ngót
nửa thế kỷ trôi qua, kể từ khi Bắc Nam liền một dải. Thời gian với những thăng
trầm của cuộc sống, dần bào mòn đi những gì gọi là phù phiếm, giả dối, cả sự
thô nhám, sần sùi, xấu xí… để giữ lại các giá trị cốt lõi chắc khỏe, đẹp đẽ và bền
vững về một thời chống Mỹ của bộ đội ta, trong đó có lực lượng Quân tăng cường Thủ
đô Hà Nội. Tôi tin rằng, các thế hệ sau luôn biết trân trọng, lưu giữ, phát huy
để những giá trị ấy mãi tỏa sáng… Sau đây, thay cho lời kết, tôi xin mời bạn
đọc cùng tôi trở về con đường Trường Sơn năm xưa, cảm nhận những vần thơ hào
sảng, kiêu hùng cất lên trong mưa bom bão đạn của người lính đất Hà thành thời
chống Mỹ :
“…Đường ta đi- con đường bom đạn
Lửa ngút rừng
già, lửa đỏ dưới chân
Tiếng bom xa
chen tiếng đạn nổ gần
Ta vẫn bước
trong niềm hồ hởi.
Gì ngăn được
bước chân ta sôi nổi
Những bước
chân đạp gai góc Trường Sơn
Dù gian lao,
bom đạn chẳng sờn
Dồn chân
bước- chiến trường xa đang gọi.”
(Trích bài thơ “Đường chúng ta đi” của Bùi Thượng Toản- Cựu bộ đội Quân tăng cường Thủ đô, sáng tác tại Trường Sơn, tháng 3/1972)
Đông
Anh, ngày 03/11/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét