Nguyễn Thị Phương Anh
Trong
dòng chảy Haikư trên đất Việt, có sự tham gia của không ít các tác giả nữ. Vậy
họ là ai? Và họ đã làm được gì?
Trước tiên, cần khẳng định, đó là những người
yêu thơ, có năng lực sáng tác. Họ đã ít nhiều được tiếp cận với nền Văn học
Nhật Bản, nhất là thể loại thơ Haikư - Quốc thi của “Xứ sở mặt trời mọc”. Tâm hồn tinh tế của họ đã bắt nhạy với những
điều ẩn chứa sâu xa mang tính triết mỹ của loại thơ vô cùng hàm súc này. Phần
nhiều số họ đã tham gia các câu lạc bộ Haikư Việt theo quy mô lớn nhỏ, đang
được hình thành và phát triển ở một số tỉnh thành Bắc- Trung- Nam, mà điển hình
là 3 câu lạc bộ Haikư Việt của thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội và thành
phố Nha Trang. Các tác giả nữ, mỗi người một ngành nghề, có vị trí xã hội,
trình độ học vấn và cả hoàn cảnh gia đình không giống nhau, nhưng cùng chung sự
quan tâm, yêu thích thơ Haikư và muốn dùng nó để chuyển tải những thông điệp ý
nghĩa về thiên nhiên và cuộc sống con người.
Có thể
nói, sáng tác của các haijin nữ là thành tựu không thể phủ nhận. Và để khẳng
định điều đó với một niềm trân trọng đặc biệt, Câu lạc bộ Haikư Việt Hà Nội đã
quyết định cho ra đời tuyển tập Haikư đầu tiên của các tác giả nữ người Việt có
nhan đề “Ban Mai Xanh”. Tập thơ gồm
539 bài của 28 tác giả. Trong đó có 2 nữ cộng tác viên người Nhật Bản và Bồ Đào
Nha (bà Sayumi Kamakura và bà Zlatka Timenova). Cuốn sách được in tại NXB Hội
Nhà văn và chính thức ra mắt người đọc vào tháng 12/2021.
“Ban
Mai Xanh” có lẽ đã gây ấn tượng
cho người đọc ngay từ trang bìa. Họa tiết giàu tính nữ, tinh tế trong đường
nét, màu sắc gợi sự chuyển đổi thiên nhiên qua 4 mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhan đề
sách tạo nên cảm giác về sự khởi đầu tươi mới, dịu dàng, hứa hẹn triển vọng tốt
đẹp. Và khi đến những trang thơ các tác giả nữ, chúng ta không thể phủ nhận lời
của nhà phê bình Nhật Chiêu: Một “Ban Mai
Xanh” rất thơ.
Nói đến thơ là nói đến ngôn ngữ giàu hình ảnh,
nhạc điệu, sử dụng đa dạng các biện pháp tu từ để biểu đạt những rung động tình
cảm sâu sắc, tinh tế của con người…Không ít độc giả Việt Nam khó nhận ra hình
hài thơ trong thể loại Haikư rất kiệm lời này. Có thể nói Haikư đến với người
đọc bằng tứ, bằng điều hàm ẩn hơn là ở phô bày sự tường minh chữ nghĩa. Cảm xúc
trong Haikư là thứ cảm xúc lý trí, được bắt nguồn từ những rung động mang tính
khám phá phát hiện của tác giả, rồi chắt lọc cô lại ở mức độ “tinh chất” để
thành thơ. Tiếp nhận loại thơ này đã xuất hiện 2 xu hướng từ người đọc Việt: Một
là “cao siêu hóa” coi Haikư vượt quá tầm nhận thức, cảm thụ. Hai là “đơn giản
hóa”, coi nó chỉ là câu nói có vần hoặc không có vần về một điều gì đó cảm thấy
có ý nghĩa, không cần khổ công học hỏi luyện bút mới làm được. Cả hai xu hướng
trên đều có chung một hệ quả là độc giả kém nhiệt tình với việc tìm đọc Haikư,
họ muốn chuyên tâm vào những áng thơ Việt gần gũi và hợp với cách cảm cách nghĩ
hơn. Vậy mà một bộ phận các tác giả nữ lại tìm đến Haikư để say mê và sáng tác.
Họ thoát khỏi 2 xu hướng trên, kéo Haikư gần với người Việt bằng những tác phẩm
giàu xúc cảm thẩm mỹ và không kém phần sâu sắc.
Giống như các haijin người Nhật, các nữ Việt đã
đi tìm cảm hứng trong thiên nhiên tạo vật. Ta có thể nhận ra, thiên nhiên trong
tác phẩm của họ không phải chỉ là sự tồn tại khách thể. Nó đẹp hơn, trữ tình và
hùng vĩ hơn khi được giao hòa với con người.Và nhờ có thiên nhiên, con người
mới bộc lộ được niềm khát khao, cảm hứng vô bờ của mình.
Nói đến biển, bất cứ ai cũng có thể hình dung ra
những cảnh như: sóng, con thuyền và chim hải âu. Nhưng khi được nhìn bằng con
mắt của một người mang niềm khát khao trải nghiệm, khám phá, muốn vươn tới tầm
cao mới…thì thiên nhiên quen thuộc ấy hiện lên bằng hình ảnh mang sắc thái mới
lạ và rạo rực lòng người: Con thuyền/ trườn trên ngực sóng/ chạm cánh
Hải Âu. (Phương Anh)
Trăng vốn là thực thể xa ngắm. Nhưng với haijin
Lê Thị Bình, trăng vời vợi kia dường như hóa thân vào cây cỏ quanh ta. Mỗi một
chiếc lá vàng đều như chứa trong đó cái hồn của trăng vậy, để mỗi khi cầm chổi
quét lá lại như nghe tiếng trăng xào xạc dưới chân mình. Chỉ là chấm phá đôi ba
nét cũng đủ giúp người đọc hình dung người cầm chổi đang nương tay nhẹ chân như
thế nào để khỏi làm trăng đau: Quét lá vàng rơi/ những mảnh trăng/ xào xạc
dưới chân.
Thời
gian chảy không ngừng, vạn vật cũng không ngừng biến đổi. Hoa vừa mới nụ nhưng
sẽ nhanh nở rồi tàn, hạt sương long lanh dưới ánh mặt trời rồi sẽ tan mau vào
hư không. Chỉ người có tấm lòng yêu say cái đẹp, muốn níu giữ cái đẹp mới có
bài thơ sau làm rung động lòng người: Nụ đào phai/ sương mai/ ngấn lệ.
(Thu Sang). Hình ảnh“ngấn lệ”không đơn giản là “lệ sương” theo liên tưởng
so sánh quen thuộc. Nó còn gợi được tâm trạng xót xa nuối tiếc và cả sự bất lực
của con người khi nhìn thấy cái đẹp đang mất dần theo quy luật khắc nghiệt của
tạo hóa…
Còn
đây là một trải nghiệm trên sông nước. Con thuyền và trăng là những hình ảnh
nên thơ, mang sắc màu cổ điển. Nhưng với Phượng Uyên lại có sức đột phá sáng
tạo, gợi một vẻ đẹp trẻ trung, đa tình: Giữa dòng/ thuyền neo/ trăng treo lúng
liếng.
Ở tập Ban mai xanh, còn nhiều bài thơ viết về
thiên nhiên mà ẩn sâu trong đó những cảm xúc tinh tế giàu chất nhân văn của các
tác giả nữ. Nó thức dậy những trải nghiệm trong lòng người đọc, và quan trọng
hơn, khiến cho tâm hồn ta trở nên thanh sạch, biết trân trọng những cái đẹp cho
dù là nhỏ bé nhất.
Không
chỉ viết về thiên nhiên, thơ cảm nhận về cuộc đời của chị em cũng không kém
phần sâu sắc và phong phú. Đây là bài thơ vô cùng ngắn của tác giả Hồng Đào:
Thắng thua/ lẽ đời/ vô tư. Chỉ là 6 âm tiết Việt, nhưng ẩn chứa trong
đó bản lĩnh, thái độ sống của một người đàn bà đã từng trải, thấu suốt những
buồn vui của cuộc đời và xác định cần vững vàng để đi tiếp con đường của mình.
Suy ngẫm về vị trí của người phụ nữ
trong gia đình, nhà thơ Nguyễn Thị Kim viết: Người đàn bà/ cái bóng của chồng
con/ không còn tiếng nói. Tác giả đã nhìn sâu vào cuộc sống của nhiều
người đàn bà để nhận ra sở dĩ họ không được tôn trọng, lép vế trước chồng con
là vì họ quá nhường nhịn, cam chịu, không biết vươn lên tự khẳng định mình. Đó
cũng là nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng giới mà xã hội hiện đại văn minh lên
án.
Tác
giả Lài Linh Chi lại có một đúc kết khác, có lẽ từ chính mình, để khẳng định
một cái tôi tự chủ rất mạnh mẽ: Leo núi cao hay xuống vực sâu/ thành bại/ do
ta quyết định. Với tư cách là người phụ nữ, hẳn Linh Chi cũng muốn gửi
gắm thông điệp: Người đàn bà có thể và hoàn toàn có quyền định đoạt số phận của
mình.
Với người phụ nữ, không thể sống thiếu
tình yêu. Khát vọng về tình yêu luôn chảy trong họ ngay cả lúc tuổi đã về
chiều. Đây là một chút bâng khuâng luyến tiếc khi trở về nơi ghi dấu một thời
xanh: Đồi cát trắng/ trăng xưa/ lời yêu chưa ngỏ.(Thạch Lựu) Chỉ bằng
2 hình ảnh: đồi cát và trăng nhưng tác giả đã tạo ra một không
gian không chỉ là hiện tại mà còn là quá khứ cùng với sự tĩnh lặng vô biên của
đất trời để từ đó lắng nghe tiếng lòng hoài niệm với bao nuối nhớ.
Tình yêu tạo niềm hạnh phúc vô bờ song
cũng để lại không ít buồn sầu, cả nỗi đau khó có thể lành lại. Nếu như vầng
trăng từng chứng giám cho lời thề nguyền gắn kết lứa đôi, thì đêm chia tay, chỉ
có đom đóm chập chờn, chẳng đủ nhen lên dù chỉ một chút hi vọng, bởi tình yêu
chẳng thể níu giữ được nữa rồi: Bầy đom
đóm bay/ hai người hai hướng/ không một lời buông (Quỳnh Như). Mỗi người
một hướng, sự chia tay trong lặng lẽ. Hình ảnh “Không một lời buông” rất đắt giá. Nó khẳng định sự cạn lời, cạn
tình đến tuyệt đối của 2 con người đã từng nặng lòng yêu nhau. Không một từ nào
biểu đạt trực tiếp trạng thái tình cảm, nhưng bài thơ vẫn đủ sức làm quặn thắt
trái tim của người đọc.
Tình yêu khi đã không còn thì dẫu có
bên nhau trong tấc gang cũng đâu phải là gần gũi. Khoảng cách về tâm hồn là thứ
không thể dùng vật chất để nối liền. Và đó chính là sự mất mát, trống trải
khủng khiếp mà người phụ nữ từng phải đối mặt: Cách một vòng tay/ trống hoác/ cả tâm hồn này (Như Trang)...
Có thể nói, “Ban Mai Xanh” đã ghi nhận thành tựu đáng trân trọng và năng lực
dồi dào của các tác giả nữ Việt trong sáng tác thơ Haikư. Với 539 bài thơ gửi
gắm tâm huyết của 28 nữ haijin thì những cảm nhận trên là chưa đủ. Phải có một
chuyên luận dài may ra mới nói được sâu, đánh giá được toàn diện thơ Haikư của
chị em. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin phép được dừng bút và mong rằng
độc giả coi điều tôi trình bày như là sự gợi mở hướng tiếp nhận, để từ đó tìm
đọc và khám phá nhiều hơn, sâu sắc hơn về những áng thơ của các haijin nữ Việt
Nam.
……………………………………………………………………………
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét